Phân tích kỹ thuật bằng phần mềm Metastock
Metastock là một phần mềm phân tích kỹ thuật khá phổ biến. Ngoài việc cung cấp công cụ phân tích kỹ thuật thông qua các biểu đồ, chỉ số v.v, Metastock cho phép người sử dụng kết nối dữ liệu Online, thực hiện lệnh mua và bán chứng khoán tự động (nếu công ty môi giới có hạ tầng kỹ thuật cho phép điều này) và nhiều chức năng khác. Nhiều phần mềm phân tích chứng khoán khác cũng rất phổ biến và có những tính năng riêng, ví dụ thực hiện marketing scanning (lọc ra một số chứng khoán đáp ứng tiêu chí nhất định), đưa ra một vài loại biểu đồ “độc quyền”. Ngược lại, lợi thế của Metastock là giao diện đơn giản, dễ sử dụng, phù hợp với mọi thị trường, và đặc biệt có công cụ Metastock Formula Language (một dạng như công thức của Excel), cho phép tạo ra những tính năng cao cấp tuỳ nhu cầu của người sử dụng. Chính vì thế có rất nhiều những sản phẩm được tạo ra để gắn vào Metastock (gọi là plug-ins), ví dụ các công cụ phân tích của các công ty như Profitunity, PS, Robert Deel v.v. Nói chung là Metastock phù hợp với mọi trình độ phân tích kỹ thuật.
Phần 1: Cài đặt: Cài đặt phiên bản MS Professional 8.0 (có thể mua đĩa ở ngoài) là phù hợp đối với thị trường Việt Nam rồi, không nhất thiết phải download phiên bản mới hơn (9.0) cho mất công.
Phần 2: Sau khi cài đặt: The Downloader dùng để xử lý data (tải, nhập, chỉnh sửa, copy, xoá, sắp xếp v.v), còn Metastock Professional dùng để thực hiện phân tích kỹ thuật trên dữ liệu của The Downloader.
Giao diện và cách sử dụng: Nếu ai đã từng sử dụng MS Word, MS Excel hoặc Powerpoint sẽ thấy sự tương đồng giữa hai ứng dụng trên đây và Metastock. Metastock và The Downloader nút shortcut tương tự (về hình dạng và chức năng) như các phần mềm Office, như New, Open, Save, Print, Undo, Redo v.v. Ngoài ra có những nút khác của riêng Metastock mà tôi sẽ nói kỹ hơn ở phần sau.
Đặc biệt, Metastock cho phép các thao tác: double-click (kích đúp chuột), righ-click (kích chuột phải), drag-and-drop (kích và rê chuột), context sensitive help (trợ giúp tuỳ theo từng tình huống) hoàn toàn tương tự như khi sử dụng Word, Excel hay Powerpoint, vì thế khi các bạn lúng túng với một chức năng hay object nào đó, chỉ cần nhớ right-click, double-click hoặc click vào biểu tượng Help hoặc dấu hỏi bên cạnh mũi tên là có câu trả lời.
Phần 3: Dữ liệu sử dụng cho Metastock
Trước khi đi sâu tìm hiểu cách sử dụng Metastock, tôi sẽ nói sơ qua về dữ liệu sử dụng để phân tích bằng Metastock. Metastock sử dụng dữ liệu Online (được cung cấp qua Internet, có thể ở dạng Real time nghĩa là ngay lập tức, hoặc có độ trễ nhất định tuỳ nhà cung cấp), hoặc dữ liệu Local (do mình tự load vào máy). Ở đây xin giới hạn đến bối cảnh của TTCK Việt Nam là phải dùng Local data, và nguồn dữ liệu hiện có duy nhất theo tôi biết hiện nay là từ website của BSC. Các bạn truy cập vào trang web www.bsc.com.vn, sau đó chọn Giá thống kê / Download Price và tải file dữ liệu về máy tính.
Dữ liệu của BSC có dưới dạng file .dat theo từng ngày, tên file là StockDay hoặc MarketDay, hoặc toàn bộ dữ liệu từ đầu đến một ngày nào đó (BSC thường gom toàn bộ dữ liệu 1-2 lần một tháng), tên file là StockData hoặc MarketData (lưu ý phân biệt chữ Day hoặc Data trong tên file).
File StockDay hoặc StockData chứa dữ liệu từng chứng khoán, còn file MarketDay hoặc MarketData chứa dữ liệu của chỉ số VNINDEX.
Dữ liệu trong file được chứa thành từng record (từng hàng), mỗi record cho một ngày cho một chứng khoán và có các thông tin sau:
Ticker,Date,Open,High,Low,Close,Volume
(Mã chứng khoán, Ngày, Giá mở cửa, Giá cao, Giá thấp, Giá đóng cửa, Khối lượng GD)
Dữ liệu Date được quy ước theo dạng mm/dd/yyyy (tháng/ngày/năm). Trình tự sắp xếp trên đây và quy ước dữ liệu Date này cũng chính là mặc định về quy ước sắp xếp dữ liệu nguồn dạng ASCII sử dụng cho Metastock. Khi các bạn tự tạo ra dữ liệu bằng tay (giả sử là Excel, ví dụ để xây dựng chỉ số Advance-Decline Line, các bạn phải tự tạo dữ liệu về số lượng chứng khoán giảm giá trong ngày, số lượng chứng khoán tăng giá trong ngày v.v là những dữ liệu không được cung cấp sẵn) thì cũng phải tuân theo những quy ước về dữ liệu nguồn phù hợp với từng dạng file (Excel, Quattro, ASCII). Tôi không đi sâu vào chi tiết, trong phạm vi của phần này dữ liệu của BSC đã phù hợp với mục đích của Metastock rồi.
Về lý thuyết, đối với một file dữ liệu dùng để nhập vào, Metastock chỉ cần 2 trường là Date và Close (nếu nhập dữ liệu vào một chứng khoán đã có sẵn thì không cần Ticker, nếu không có ticker và chưa có chứng khoán thì Metastock tự tạo và hỏi mình đặt tên). Tuy nhiên vì Metastock lưu dữ liệu theo 6 trường (fields): Ticker, Date, Open, High, Low, Close, Volume và Open Interest, nên những trường không có sẽ bị gán giá trị = 0, các bạn nên lưu ý trường hợp này.
Open Interest là một thông tin quan trọng cho phân tích kỹ thuật, tuy nhiên nó liên quan đến Options (quyền mua / quyền bán) vốn chưa có trên TTCK Việt Nam, chứ nó không phải là khối lượng dư mua hay dư bán sau mỗi phiên như một số người lầm tưởng. Vì vậy chúng ta có thể bỏ qua Open Interest.
Lưu ý quan trọng: sau này khi sử dụng tốt Metastock, các bạn cần kiểm tra (Test) dữ liệu vì dữ
liệu của BSC có nhiều chỗ sai. TTCK Việt Nam lấy giá Open là giá Close của hôm trước, với phương thức khớp lệnh theo phiên như hiện nay giá Open có thể không nằm trong khoảng High – Low. Bên cạnh đó BSC thường nhập lộn giá trị của High – Low – Close (nhất là của VNINDEX) nên đôi khi thấy High nhỏ hơn Low, hoặc Close lớn hơn High v.v. Ngoài ra, khi trong một ngày chứng khoán X không có giao dịch, BSC sẽ quy giá trị của High = Low = Close = Volume = 0, điều này không đúng (chỉ có volume = 0 thôi, còn Close nên lấy bằng Open nếu không có giao dịch, nếu quy tất cả về zero thì sẽ làm biểu đồ giá bị tụt xuống dưới, tất cả các chỉ số khác bị sai lệch). Tôi sẽ nói kỹ hơn về cách Test dữ liệu ở phan sau
Phần 4: Nhập dữ liệu cho Metastock
Chúng ta đã có ý tưởng sơ qua về loại dữ liệu sử dụng cho Metastock, và chúng ta cũng tạm hài lòng với những gì BSC cung cấp. Trước khi tìm hiểu kỹ hơn, tôi sẽ nói về cách nhập dữ liệu của BSC vào Metastock. Các bạn sử dụng những nguồn dữ liệu khác nếu chưa rành có thể liên lạc với tôi để biết cụ thể hơn.
Trong website của BSC cũng có hướng dẫn cách nhập dữ liệu vào Metastock thông qua công cụ Convert. Ở đây tôi xin hướng dẫn vắn tắt:
Trước hết các bạn hãy lưu file dữ liệu của BSC vào một thư mục nào đó. Bất kỳ thư mục nào trên máy tính cũng được, đặt tên thư mục là gì cũng được. Đây là thư mục chứa file nguồn, giả sử tôi đặt tại My Documents / DataCK. Giả sử chúng ta có các file dữ liệu của toàn bộ chứng khoán tải từ www.bsc.com.vn tính đến ngày 1/12/2006, đặt tên file là StockData1.12, và dữ liệu của VNINDEX tính đến 1/12/2006, đặt tên file là MarketData1.12.
Khi cài đặt Metastock thì phần mềm sẽ tự động tạo ra thư mục Metastock Data trong ổ C: trong đó có folder Sample chứa các dữ liệu mẫu kèm theo Metastock. Chúng ta sẽ tạo thư mục BSC Data bên trong thư mục Metastock Data để chứa các file dữ liệu Metastock sau khi chúng đã được Convert từ dạng file .dat của BSC qua dạng file của Metastock. Tương tự như trên, chúng ta mở thư mục ở đâu cũng được, đặt tên gì cũng được. Đặt ở thư mục này chỉ là cho tiện thôi.
Sau đó các bạn mở The Downloader, chọn Convert (từ menu Tools / Convert hoặc ấn nút Convert hình 2 cái vali có mũi tên trên Toolbar). Dưới đây là phần Convert dữ liệu các chứng khoán. Cách convert dữ liệu VNINDEX làm tương tự.
Trong cửa sổ Convert Securities, phần Source, chọn File type là ASCII Text. Chọn nút Browse để mở file StockData1.12 trong thư mục chứa file nguồn (My Documents / DataCK / StockData1.12).
Trong phần Destination, chọn File type là Metastock. Chọn Browse, sẽ hiện ra cửa sổ Save, chúng ta chọn thư mục C: / Metastock Data / BSC Data, sau đó chọn Save. Không cần quan tâm đến nút “Security” trong cửa sổ Save.
Bây giờ trong cửa sổ Convert Securities các bạn hãy vào Options, các mục khác cứ để như mặc định (trong cửa sổ Source không cần điền vào Date Range, không cần thay đổi Message Limits, Periodicity để Daily, trong cửa sổ Destination chọn Append data to end of file, Replace matching dates, Create new files, chọn cả Include Open & Open Interest để có dữ liệu giá mở cửa, còn Open Interest như tôi nói ở trên chúng ta không cần quan tâm).
Lưu ý: các bạn nên chọn Traverse Source Folder và bỏ chọn Traverse Destination Folder, tôi không giải thích kỹ phần này, tuy nhiên làm như vậy sẽ tạo tất cả các file dữ liệu Metastock trong cùng một folder thay vì mỗi file (cho mỗi chứng khoán) trong 1 folder riêng. Việc này có những ích lợi nhất định mà tôi sẽ nói ở phần sau.
Sau khi đã đặt các tuỳ chọn như trên, nhấn OK để thực hiện việc chuyển đổi dữ liệu. Nếu nhập toàn bộ dữ liệu từ đầu có thể sẽ mất khá nhiều thời gian. Khi hoàn tất việc convert dữ liệu sẽ hiện ra Conversion Report. Tác dụng của conversion report là cho chúng ta biết việc convert dữ liệu có trọn vẹn hay không, có bị lỗi hay không. Có ba biểu tượng: dấu X màu đỏ biểu thị các records bị lỗi (ví dụ lỗi High < Low hoặc Close > High), dấu tam giác vàng biểu thị warnings (ví dụ có thay đổi quá lớn từ High – Close), dấu tick màu xanh biểu thị mọi thứ OK. Thông thường dấu tick màu xanh sẽ xuất hiện bên trái cạnh mỗi mã chứng khoán được convert, ngoài ra phía sát lề phải giả sử có số 1 xuất hiện ở cột tương ứng với dấu X màu đỏ, nghĩa là dữ liệu của mã chứng khoán đó đã được convert, tuy nhiên bị errors.
Bảng conversion report có tác dụng trong những trường hợp việc convert dữ liệu vì một lý do gì đó mà không trọn vẹn (ví dụ thường xảy ra khi convert dữ liệu Excel qua Metastock nhưng định dạng file không đúng cách). Khi đó nếu kích đúp vào mỗi mã chứng khoán, ta sẽ biết Metastock đã xử lý như thế nào: có thể đã không thực hiện (xuất hiện số 0), hoặc được convert nhưng một số record bị discarded (không được convert). Khi đó cần xem lại quá trình convert, file dùng để convert và phải thực hiện lại thao tác Convert Securities.
Như vậy là chúng ta đã có dữ liệu để phân tích. Từ đây về sau, hàng ngày bạn có thể tải dữ liệu từ website của BSC vào và thực hiện Convert tương tự như trên, giữ nguyên tất cả những tuỳ chọn trong mục Options.
Phần 5: Tìm hiều các menu của The Downloader
Sau đây tôi trình bày về các menu của The Downloader. Mỗi khi chọn một chức năng nhất định, một cửa sổ sẽ hiện ra, tôi xin không đi chi tiết vào tất cả các nút trong mỗi cửa sổ. Các bạn có thể đặt câu hỏi trong topic này hoặc gặp tôi tại địa chỉ Trà Quán Padme ở bài đầu tiên, tôi sẽ giải thích thêm. Ngoài ra cũng xin nhắc lại là Metastock có chức năng Context Sensitive Help, trong mỗi cửa sổ sẽ có nút Help giải thích chi tiết chức năng của mỗi nút trong từng cửa sổ, các bạn có thể click vào đó để tìm hiểu.
The Downloader / File:
Trong mục File có chức năng New để tạo một chứng khoán mới (chưa có dữ liệu), Open để mở một chứng khoán hiện có, Print để in. Thông thường khi các bạn có dữ liệu, ví dụ của BSC (www.bsc.com.vn ) hoặc dữ liệu các bạn tự tạo qua Excel và chuyển dữ liệu đó thành dữ liệu của Metastock thì các chứng khoán sẽ được tự động tạo ra trong quá trình nhập dữ liệu, vì vậy các bạn không cần quan tâm lắm đến chức năng New.
Trong File / New có hai lựa chọn: Security hoặc Composite. File / New / Security nghĩa là tạo ra một chứng khoán “gốc”, nghĩa là chứng khoán “thật” để nạp dữ liệu của chứng khoán đó vào phân tích. Ví dụ tôi tạo ra chứng khoán GMD và nhập dữ liệu của GMD vào (như tôi nói ở trên, nếu các bạn đã có sẵn data của GMD và trong dữ liệu của GMD có ticker thì khi nhập data của GMD vào Metastock bằng chức năng Convert, chứng khoán GMD sẽ tự động được tạo ra).
File / New / Composite dùng để tạo ra một chứng khoán (đúng ra cứ gọi nó là Composite cho khỏi lộn) bằng cách kết hợp 2 chứng khoán khác thông qua các phép toán cộng, trừ, nhân, chia. Ví dụ: tôi muốn biết GMD tăng trưởng so với toàn bộ thị trường như thế nào, tôi sẽ lấy GMD chia cho VNINDEX và theo dõi hiệu số này qua thời gian. Như vậy tôi sẽ tạo ra một Composite bằng GMD / VNINDEX.
File / New / Open dùng để mở dữ liệu của một chứng khoán. Dữ liệu của chứng khoán trong Metastock như đã nói ở trên gồm có các trường Ticker, Date, Open, High, Low, Close, Volume và Open Interest, và được lưu trữ dưới dạng datasheet (một dạng như bảng tính Excel).
Trong Downloader / File , mỗi khi mở dữ liệu một chứng khoán dưới dạng datashet sẽ có các chức năng khác như Close, Save, Page Setup, Print v.v cũng tương tự như các phần mềm Office, tôi không đi sâu vào chi tiết.
Bây giờ giả sử các bạn hãy mở dữ liệu của GMD (sau khi đã qua phần convert dữ liệu của BSC thành dữ liệu Metastock mà tôi trình bày ở trên). Chọn File / Open hoặc ấn vào nút Open trên thanh công cụ. Cửa sổ Open sẽ hiện ra, bạn chọn GMD trong danh sách các mã chứng khoán hoặc gõ vào GMD ở ô Security. Lưu ý là nếu convert data của BSC theo cách ở trên và không làm thêm thao tác gì khác thì tên chứng khoán (Name) và mã chứng khoán (Symbol) là giống nhau, ví dụ đều là GMD – GMD chứ không phải là Gemadpet – GMD. Click vào Open và datasheet của GMD sẽ hiện ra.
Phần 6: Tìm hiều các menu của The Downloader (tiếp)
Chào mừng các bạn trở lại. Chúng ta đã mở datasheet của GMD. Phần trên của datasheet là các thông tin chung về chứng khoán GMD, các bạn có thể đổi symbol, đổi tên, nhập lại First date là ngày tương ứng với record đầu tiên, chỉnh lại đơn vị tính, có các cột Open và Open Interest hay không. Sau khi các bạn sửa những thông tin đó thì datasheet sẽ được tự động thay đổi theo. Để lưu lại những thay đổi các bạn có thể nhấn Ctrl + S, hoặc vào File / Save, hoặc click vào biểu tượng Save trên thanh công cụ. Nếu không làm vậy, khi đóng datasheet lại, Downloader cũng sẽ có câu hỏi có lưu lại những thay đổi không.
Downloader / Edit
Phần dưới của datasheet tương tự như bảng tính Excel, trong đó có các cột là các trường (fields), có các ô (cells), mỗi hàng là một record tương ứng với một ngày. Trong menu Edit có các chức năng cho phép xử lý các cells nhưl: Cut, Copy, Paste, Clear. Ngoài ra có chức năng tìm ngày (Find date), ví dụ sau này các bạn Test dữ liệu và thấy trong quá khứ có những record bị lỗi, cần sửa lại thì sẽ dùng chức năng Find date để tìm record đó; chức năng chèn thêm dòng (insert row), xoá dòng (delete row). Tất cả các chức năng trong menu Edit thao tác hoàn toàn giống như Excel, kể cả phím tắt cũng tương tự (Ctrl + C là copy, Ctrl + X là Cut, Ctrl + V là paste v.v).
Thông thường chức năng Edit được sử dụng để chỉnh sửa trực tiếp trên datasheet các dữ liệu của BSC (bị lỗi khá nhiều). Nếu đối với một chứng khoán số lỗi ít thì có thể sửa tay trên datasheet, còn nếu lỗi nhiều (ví dụ VNINDEX như tôi nói ở trên) thì có thể phải chuyển data từ dạng file .dat của BSC hoặc từ dạng file của Metastock qua Excel, sau đó chỉnh sửa dữ liệu tự động trên Excel rồi convert trở lại Metastock.
Khi các bạn di chuyển con trỏ trong các cells của datasheet, nếu một record có lỗi thì sẽ bị báo lỗi, ví dụ VNINDEX thường xuyên bị báo lỗi “The High-Low-Close relationship for <date> is unusual. Do you want to edit this record?”. Lý do như đã nói, có thể do nhập lộn giá trị của High và Low.
Downloader / View
Trong menu View không có gì đặc biệt. “Last Conversion Report” dùng để xem kết quả của lần convert data cuối cùng (bài trước đã nói kỹ về converson report).
Downloader / Tools
Đây là menu quan trọng nhất cho việc xử lý dữ liệu của Downloader. Chúng ta đã biết chức năng Convert (các bạn muốn tìm hiểu cách convert các dạng file khác có thể đọc thêm trong phần Help, giải thích khá chi tiết, hoặc trao đổi thêm với tôi). Sau đây tôi sẽ nói về chức năng Test, và các chức năng khác.
Chức năng Test cũng khá đơn giản. Các bạn chọn Tools / Test hoặc click vào incon Test trên thanh công cụ (biểu tượng một hình chữ nhật có dấu tick). Cửa sổ Test Securities sẽ hiện ra. Nút Browse để bạn vào thư mục nơi chứa các file data Metastock. Bạn chọn các Securities để test xem dữ liệu có vấn đề không. Để chọn toàn bộ các Securities có thể chọn 1 security bất kỳ, sau đó nhấn Ctrl+A (y chang Word hay Excel!). Để chọn 1 loạt securities liền nhau, sử dụng phím Shift + mũi tên. Để chọn 1 số securities riêng lẻ, nhấn giữ Ctrl trong khi chọn. Trước khi Test, các bạn hãy vào Options. Trong cửa sổ Options sẽ có một số lựa chọn: Các loại lỗi nào bạn muốn kiểm tra xem dữ liệu bị lỗi. Có thể chọn tất cả các loại lỗi, tuy vậy vì thị trường CKVN giao dịch theo phiên, lấy giá Close hôm trước làm giá Open hôm sau nên hay bị lỗi 1100 “Open outside of High-Low range”, đây là một lỗi đối với Metastock nhưng không phải là một lỗi đối với TTCKVN nên cần bỏ chọn lỗi 1100 – nếu không số lượng lỗi báo quá nhiều, khó theo dõi và khi số lỗi vượt qua ngưỡng Maximum errors mà mình đặt ở dưới thì sẽ ngưng lại, các lỗi sau đó không được report.
Bên dưới, chọn Show securities with errors only, không chọn Strict test, đặt Maximum errors khoảng 3000 chẳng hạn. Sau đó OK và quay trở lại cửa sổ Test Securities. Nhấn Test để thực hiện việc kiểm tra dữ liệu, sau đó Test Report sẽ hiện ra báo cho các bạn biết mỗi chứng khoán bị những lỗi gì.
Kinh nghiệm của tôi là lỗi bị nhiều ở VNINDEX, và bị ở cả những record gần nhất nên phải được sửa lại. Còn các chứng khoán khác bị nhiều ở những records của các năm trước nên bỏ qua cũng không sao (trừ khi bạn muốn chạy backtesting một trading system nào đó và cần sử dụng dữ liệu của toàn bộ quá khứ).
Phần 7: Tìm hiều các menu của The Downloader (tiếp)
Tools / Adjust : chức năng này dùng để điều chỉnh dữ liệu (chỉnh ngày Start lui về trước để bổ sung thêm dữ liệu quá khứ, chỉnh dữ liệu của một chứng khoán bằng cách cộng trừ nhân chia với một giá trị nào đó, chỉnh Start / End time của dữ liệu trong ngày – intraday data). Trong phạm vi của bài viết này tôi không đi sâu vào chi tiết vì không cần thiết.
Tools / Copy, Delete : khác với các lệnh Copy / Delete trong menu Edit dùng để copy hoặc delete dữ liệu của các cells hoặc các records trong một datasheet của một chứng khoán nào đó đang được mở, các lệnh Copy / Delete trong menu Tools dùng để copy toàn bộ một file dữ liệu của một chứng khoán (từ folder này qua folder khác hoặc trong cùng một folder), delete (xoá) một chứng khoán hoặc xoá toàn bộ data của một chứng khoán.
Tools / Merge : chức năng này dùng để gộp dữ liệu của 2 chứng khoán (lưu ý là dữ liệu của mỗi chứng khoán đều được tổ chức dưới dạng datasheet với 7 cột: Date, Open, High, Low, Close, Volume, Open Interest, các records được phân biệt với nhau bởi giá trị Date). Sử dụng chức năng này ví dụ khi data của cùng một loại chứng khoán được chứa ở 2 file khác nhau, file thứ nhất chứa data từ 2000 đến 2003, file thứ hai từ 2003 đến nay. Khi đó thực hiện thao tác merge dữ liệu từ file nguồn (file 1) qua file đích (file 2) để có được một file đầy đủ dữ liệu từ 2000 đến nay. Sử dụng file nào làm file nguồn, file nào làm file đích cũng được. Chức năng này ít dùng nên tôi cũng không đi vào chi tiết.
Tools / Sort : chức năng này dùng để sắp xếp dữ liệu của một chứng khoán (Sort Data) theo trình tự tăng giảm dần về thời gian và loại bỏ những records trùng trong datassheet của chứng khoán đó, hoặc sắp xếp thứ tự lưu và xuất hiện các file chứng khoán theo thứ tự abc (Sort Securities). Thông thường các chứng khoán mới nhất sẽ đứng ở cuối danh sách, chứng khoán lâu nhất đứng ở đầu (đây là cách sắp xếp ngầm định theo Start Date của Metastock).
Ngoài ra menu Tools còn có các chức năng khác để tải dữ liệu online (download, vendor options v.v) ít sử dụng nếu chỉ dùng data của BSC.
Phần 8: Tìm hiểu giao diện của Metastock
Các phần trước tôi đã nói sơ về việc sử dụng The Downloader và các thao tác trên dữ liệu. Ngoài những chức năng đã đề cập, khi mở datasheet của một chứng khoán, trên hàng menu sẽ có thêm menu Adjust (không phải chức năng Adjust trong menu Tools) sử dụng để điều chỉnh dữ liệu khi có các nghiệp vụ tách, gộp cổ phiếu. Tuy nhiên, quan trọng nhất trong The Downloader vẫn là 2 chức năng Convert và Test trong menu Tools mà các bạn mới tìm hiểu nên nắm rõ. Ngoài ra, các bạn cũng đừng quên chức năng Context Sensitive Help của The Downloader.
Bây giờ các bạn có thể mở Metastock (offline mode). Giả sử các bạn cài đặt bình thường và chưa có bất kỳ thay đổi nào đối với giao diện Metastock, thì màn hình Metastock sẽ có những phần sau đây (khi chưa mở chart của bất kỳ chứng khoán nào).
Bên dưới hàng Menu (File, View, Tool, Help) đầu tiên là thanh công cụ chuẩn (Standard Toolbar) gồm có lần lượt các nút: New, Open, Save, Print, Print Preview, Copy, Paste, Undo (Redo) với hình dáng và chức năng hoàn toàn giống như các nút tương tự của các phần mềm Office. Tiếp theo cũng trong Standard Toolbar còn có các nút lần lượt từ trái qua phải như sau:
Data Window : khi chọn nút này sẽ hiện lên một cửa sổ có dữ liệu tương ứng với các điểm trên đồ thị đang mở trên màn hình, tuỳ theo vị trí của con trỏ.
Zoom box : dùng để phóng lớn một đoạn biểu đồ nào đó. Để sử dụng nút này, các bạn hãy nhớ thao tác drag-and-drop mà tôi nhấn mạnh ở những bài đầu tiên. Click vào biểu tượng Zoom box, sau đó chọn vị trí trên biểu đồ, giữ và rê chuột. Để quay trở về trạng thái như cũ, chúng ta sử dụng nút Zoom Reset ở góc phải phía dưới màn hình mà tôi sẽ nói ở dưới đây.
Cạnh nút Zoom box là Indicator QuickList: nơi đây có tất cả các chỉ số (indicator) của Metastock cũng như các chỉ số plug-in (do các công ty tạo ra gắn kèm với Metastock), hoặc chỉ số customized do người sử dụng tự tạo ra. Để vẽ biểu đồ cho một chỉ số, có thể sử dụng chức năng Tool / Insert, hoặc chọn chỉ số trong Indicator QuickList, giữ và rê chuột đến nơi định vẽ biểu đồ cho chỉ số đó (thao tác drag-and-drop mà tôi đã nói ở trên). Tất nhiên còn nhiều chi tiết khác khi vẽ biểu đồ cho chỉ số (plotting an indicator) mà tôi sẽ nói kỹ hơn sau, ví dụ như xây dựng chỉ số cho cái gì, cho chứng khoán (base security) hay chỉ số của một chỉ số khác v.v.
Kế bên Indicator QuickList là một loạt các chức năng quan trọng và tương đối cao cấp của Metastock, để hiểu các chức năng này cần có kiến thức về Metastock Formula Language (tôi sẽ dần dần trình bày sau). Các chức năng này gồm:
The Downloader : đã nói ở phần trước
Expert Advisor : đưa ra những phân tích, nhận định cho từng biểu đồ (ví dụ bạn vẽ đường MACD, nếu bật chức năng Expert Advisor của MACD thì màn hình sẽ hiện ra những vùng xanh đỏ, vùng xanh là ám chỉ MACD đang bullish (xu hướng tăng giá), vùng đỏ là bearish (xu hướng giảm giá), cung cấp commentary (MACD hiện tại đang ra sao), khi có một signal (dấu hiệu mua hoặc bán) thì thông báo có thể hiện lên màn hình hoặc gửi đến email (tất nhiên mọi người sử dụng bản crack thì không thể thực hiện chức năng này) v.v
Indicator Builder : cho phép xây dựng các chỉ số tuỳ theo cách phân tích của người sử dụng.
Ví dụ chỉ số MACD sử dụng trong Metastock được xây dựng từ 2 đường trung bình trượt với những trọng số nhất định gán cho 2 đường (phương pháp exponential), người sử dụng có thể tự tạo ra chỉ số MACD từ hai đường trung bình trượt do mình quy định, ví dụ 12-day và 26-day simple moving averages. Tuy nhiên số lượng các chỉ số có sẵn trong Metastock cũng tương đối đủ dùng rồi.
OptionScope : dùng để phân tích các hợp đồng quyền mua/ quyền bán (options) hoặc hợp đồng kỳ hạn (futures), hiện chưa có ở thị trường CKVN.
Enhanced System Tester : cho phép thiết lập các trading systems theo phương pháp PTKT thuần tuý. Ví dụ thay vì bạn phân tích và mua/ bán chứng khoán GMD tuỳ theo tình hình thị trường mà bạn theo dõi hàng ngày, bạn sẽ thiết lập một hệ thống tự động mua (hoặc cung cấp dấu hiệu mua – buy signal) mỗi khi đường MACD của GMD từ dưới vượt lên trên đường trung bình trượt 9 ngày của nó (trigger line), và tự động bán (hoặc cung cấp dấu hiệu bán – sell signal) khi nó đi từ trên xuống dưới qua đường trigger line. Ngoài ra, có thể sử dụng chức năng này để kiểm chứng xem một chỉ số mình sử dụng đã được thiết lập phù hợp chưa, ví dụ bạn băn khoăn không biết nên sử dụng đường MA 20 ngày hay 30 ngày, có thể backtesting một mô hình trading dựa trên đường MA 20 ngày, và một mô hình dựa trên đường MA 30 ngày. Mô hình nào tốt hơn sẽ cho câu trả lời nên lựa chọn 20 ngày hay 30 ngày.
The Explorer : đây là chức năng cho phép lọc ra các chứng khoán đáp ứng những tiêu chuẩn nào đó và cung cấp các chứng khoán đó theo một danh sách, kèm thêm một số giá trị mình chọn. Ví dụ: cứ cuối tuần, bạn lọc ra các chứng khoán tăng giá trong 3 ngày liên tiếp, hiện các chứng khoán này thành một danh sách trong đó có các cột tên CK, mức giá trong từng ngày, thay đổi về giá v.v.
Các nút khác có trên thanh Standard Toolbar là Metastock Community (chỉ có ở phiên bản cao hơn 8.0) để kết nối với các website/ forum liên quan đến Metastock, và nút Context Sensitive Help (hình mũi tên+dấu hỏi). Khi bạn không hiểu một biểu tượng trên màn hình có ý nghĩa gì, chỉ việc click vào nút Context Sensitive Help, và click vào biểu tượng muốn tìm hiểu.
Sau đây là sơ lược về các toolbar khác:
Kế bên Standard Toolbar (cạnh biểu tượng Context Sensitive Help) là Window toolbar, cho phép sắp xếp các cửa sổ khi có nhiều cửa sổ cùng mở một lúc trên màn hình.
Dòng dưới cùng sát đáy màn hình có các toolbars: Style, dùng để định dạng biểu đồ các đường chỉ số (như dạng đồ thị, nếu là line thì vẽ nét liền hay nét rời v.v), độ dày của các đường (thickness). Color, dùng để đặt màu cho các biểu đồ. Để áp dụng Style hoặc Color, chỉ cần click trên đối tượng muốn định dạng, sau đó click trên style hoặc color mong muốn.
Tiếp theo là Custom Toolbar, có các biểu tượng Internet browser để truy cập các trang web của Equis (công ty tạo ra Metastock), các nút Apply Clean Template và Apply Popular Template, dùng để tạo thêm 1 biểu đồ của chứng khoán đang mở trên màn hình (gọi là “base security”), biểu đồ mới được tạo ra sẽ ở dạng Clean Template hoặc Popular Template. Các bạn sử dụng phần mềm Office cũng biết template là một định dạng có sẵn, trong Metastock, mỗi template sẽ có một định dạng về màu sắc, kiểu chart, những chỉ số nào được trình bày cùng với biểu đồ giá v.v. Clean Template chỉ thuần tuý có đường biểu diễn giá của chứng khoán (dưới dạng bar), còn Popular Template ngoài đường giá theo dạng bar còn có các chỉ số RSI, Stochastic, MACD và Volume.
Kế tiếp là các biểu tượng mà khi click vào đó, màn hình sẽ trình bày Broad Layout của thị trường tiền tệ, NASDAQ và NYSE (có thể các phiên bản thấp không có những layout này). Layout hiểu nôm na là một hình thức trình bày các chart trên một màn hình, một layout có thể chứa nhiều chứng khoán (khác với template là cách triển khai biểu đồ cho 1 chứng khoán nhất định). Broad Layout cho phép có những thông tin bao quát nhất về thị trường. Ngoài ra thuật ngữ layout cũng được sử dụng để chỉ định dạng in ấn.
Kế bên Custom Toolbar là Trading Toolbar với những công cụ thực hiện giao dịch trực tuyến, tôi không đi sâu vào chi tiết.
Bên phải hoặc bên trái của màn hình sẽ có các toolbar khác: Trendline, có các đường kẻ dọc, kẻ ngang, kẻ chéo để vẽ trendline. Để sử dụng các đường này, hãy nhớ nguyên tắc click-and-drop hoặc drag-and-drop. Các toolbars Line Studies, Gann, Regression, Data, Text v.v tương đối dễ thao tác, tuy nhiên việc sử dụng phụ thuộc nhiều vào kiến thức phân tích kỹ thuật nên tôi không đi vào chi tiết.
Cuối cùng, khi một biểu đồ đang được mở trên màn hình thì ngoài những toolbars ở trên, bên dưới góc phải, phía trên Trading toolbars là một số nút khác rất tiện lợi (chỉ xuất hiện khi có chart đang mở), đó là các nút sau (theo thứ tự từ trái qua):
Refresh Data, ví dụ khi các bạn sử dụng online data (dữ liệu truyền qua mạng nhưng không phải real time), click vào đây để cập nhật dữ liệu mới nhất về (nó giống như thao tác khi soạn văn bản trong Word cứ vài phút lại nhấn Ctrl+Save để lưu vậy).
Periodicity : dùng để thay đổi đơn vị thời gian (periods) để biểu diễn dữ liệu trên biểu đồ (vd dữ liệu ngày chuyển thành dữ liệu tuần, dữ liệu tuần chuyển thành dữ liệu tháng). Quy định về dữ liệu thì các bạn biết rồi, Open là giá close cuối cùng của period trước, close là giá cuối cùng củ period này v.v Vì thế nếu dữ liệu ngày chuyển thành tuần thì Open là giá close của thứ 6 tuần trước, close là giá close của thứ 6 tuần này. Để thay đổi periodicity, click vào biểu tượng và chọn tương ứng. Nếu không sử dụng các periods có sẵn (ngày / tháng / năm) mà tính period theo cách riêng, ví dụ cứ 10 ngày thì tính là 1 period, thì chọn Other và chọn con số mình muốn. Cách khác để thay đổi Periodicity là right click vào trục X (trục ngang), chọn Periodicity hoặc X-axis properties (hãy nhớ nguyên tắc right click).
Kế tiếp là nút Rescale Y axix, sử dụng khi chúng ta có một số thay đổi về đơn vị trên trục tung (trục đứng) như là để maximum value quá cao, và cần điều chỉnh lại. Click vào nút này sẽ tự động chuyển trục tung về thang đo hợp lý sao cho biểu đồ trông vừa vặn.
Nút Zoom Reset, Zoom In hay Zoom Out sẽ thay đổi view của biểu đồ, biểu thị toàn bộ data để mình thấy rõ xu hướng, hay chỉ biểu thị một vài ngày gần nhất để nhìn candlesticks cho rõ hơn.
Kế đến là các nút mũi tên tới, lui dùng để di chuyển qua các chứng khoán tiếp theo (theo trình tự alphabet). Trong một bài trước tôi đã lưu ý các bạn là khi Convert dữ liệu thì nên chọn Traverse Source Folder và bỏ chọn Traverse Destination Folder, như vậy các file dữ liệu sẽ nằm trong cùng 1 folder, và sử dụng các nút này bạn có thể duyệt qua tất cả các chứng khoán.
Cuối cùng là nút Choose Security, click vào đây sẽ hiện ra cửa sổ chứa danh sách các chứng khoán xếp theo alphabet. Các bạn có thể chọn 1 chứng khoán bất kỳ để xem chart của nó. Tuy nhiên có một cách khác để chuyển qua một chứng khoán khác, đó là các bạn cứ gõ vào bàn phím ký tự đầu tiên liên quan đến tên (hoặc mã) chứng khoán, cửa sổ Choose Security cũng sẽ tự động hiện ra. Lưu ý các tính năng này chỉ có khi đang có ít nhất một chứng khoán đang được mở trên màn hình.
Lưu ý quan trọng : trong cửa sổ Choose Security có Options, trong đó có 2 tuỳ chọn là Use Smartcharts và Use chart as template. Tôi sẽ giải thích về smartchart sau, tuy nhiên nếu chọn Use Smartcharts thì chứng khoán bạn chọn sẽ được mở ra y như lần cuối cùng nó được lưu lại, còn nếu chọn Use chart as template thì chứng khoán bạn chọn sẽ được mở ra y như chứng khoán đang được mở trên màn hình. Tác dụng của việc này là giả sử bạn nghĩ ra một kiểu vẽ chart mà bạn ưa thích và muốn kiểu đó được áp dụng cho tất cả chart của các chứng khoán khác, bạn sẽ làm 2 cách:
Lưu kiểu chart mà bạn nghĩ ra thành một dạng template, sau đó mở chart của chứng khoán khác ra và áp dụng template đó (click chuột phải trên biểu đồ của chứng khoán, chọn Apply template và chọn đúng template bạn muốn).
Hoặc mở sẵn chứng khoán có kiểu chart mà bạn ưng ý, mở Choose Security, chọn Options / Use chart as template, khi đó mỗi chứng khoán tiếp theo được mở ra sẽ được quy luôn về dạng chart của chứng khoán đang mở sẵn. Bạn chỉ việc Ctrl+Save là xong.
Phần 12: Tạo biểu đồ
Hẳn ai cũng muốn tôi phải nói ngay vào phần này, vì ai mà không muốn “ra sản phẩm” liền để còn coi ngó xem chứng khoán đang tăng giảm thế nào, đặng còn kiếm chút cháo cho kịp! Tuy nhiên khi các bạn đã sử dụng tương đối tốt Metastock rồi thì sẽ thấy rằng những gì tôi trình bày ở trên, nếu không nhìn từ góc độ đầu tư mà nhìn từ góc độ sử dụng một phần mềm, là rất cần thiết để mình sử dụng sao cho tiện nhất. Ngoài ra, tin tôi đi, cuốn sách dạy Metastock nào cũng nói về Metastock Formula Language và những thứ cao siêu đại loại thế, nhưng không có cuốn nào nói kỹ về dữ liệu và giao diện như “cuốn sách” của tôi đâu.
Có ba dạng biểu thị biểu đồ (tôi cũng không biết phải dùng ngôn ngữ tiếng Việt thế nào để các bạn khỏi lẫn lôn): Smartchart là dạng biểu đồ mà tất cả những gì bạn tạo ra hay chỉnh sửa trên đó đều được lưu lại tức thì (được coi là những chỉnh sửa cuối cùng mà không cần nhấn Ctrl+Save hay chọn Save từ menu File). Smartchart như vậy rất tiện cho chúng ta thao tác. Tuy nhiên mỗi chứng khoán chỉ có 1 smartchart nhưng có thể tạo vô số chart cho chứng khoán đó. Đối với Chart, cần Save và đặt tên thì mới lưu lại được. Giả sử trên màn hình có 2 cửa sổ, một cửa sổ là Smartchart, một cửa sổ là Chart nhưng tất cả những gì được vẽ là y chang nhau, thì để phân biệt ta để ý rằng Smartchart sử dụng tên của chứng khoán (mã CK) làm tên Smartchart, còn Chart thì sẽ có tên bắt đầu bằng Chart1-, Chart2-, v.v trừ khi ta lưu và đặt tên khác. Ngoài Smartchart và Chart, còn có Layout mà tôi đã nói ở bài trước. Smartchart được lưu tại chính folder dùng để chứa dữ liệu của Metastock sau khi convert từ data của BSC.
Để cho tiện, từ đây về sau chúng ta sẽ ngầm hiểu rằng ta đang thao tác trên Smartchart. Thao tác trên Chart hoàn toàn tương tự (nhưng mất công hơn vì phải Save).
Bây giờ hãy mở biểu đồ của một chứng khoán nào đó, giả sử là AGF. Click vào biểu tượng Open trên thanh công cụ hoặc File / Open. Trong cửa sổ Open, phần Files of Type cần chắc chắn là Smartchart.
Nếu bạn chọn một CK trong danh sách và click Open thì Smartchart của AGF sẽ được mở. Smartchart này tương ứng với những thay đổi lần cuối cùng mà bạn áp dụng đối với AGF. Nếu bạn chưa từng mở AGF, thì Smartchart của AGF sẽ tự động được tạo ra theo Default template (tôi đã giải thích template ở bài trước rồi). Nếu bạn muốn mở theo một template khác thì trước hết bôi đen AGF, sau đó cạnh nút Open có một mũi tên nhỏ, click vào đó chọn Open with template, chọn template muốn áp dụng và OK.
Đây là cách mà tôi làm: tôi không quá phức tạp chuyện phân tích kỹ thuật, chỉ cần tạo Smartchart cho mỗi chứng khoán là đủ chứ không cần tạo nhiều Chart để phân tích nhiều góc độ khác nhau. Trong Smartchart, ngoài đường giá, tôi sẽ đưa vào Volume, Bollinger Band, MACD, Stochastic và CMF và chỉ sử dụng những thông số này cho mọi chứng khoán. Do đó tôi sẽ tạo smartchart cho một chứng khoán theo đúng ý mình gồm những thông số trên, và định dạng màu sắc sao cho dễ theo dõi. Sau đó chuyển dạng smartchart này thành default template bằng cách right click trên chart và chọn Save as Default Template. Từ đây về sau, mọi chứng khoán mới được bổ sung vào danh sách, khi lần đầu mở lên sẽ đều có Smartchart như tôi muốn, sẽ tiết kiệm rất nhiều thao tác. Các bạn cũng có thể làm tương tự: xác định cho mình một phương hướng đầu tư dựa trên PTKT, tạo Smartchart phục vụ phương hướng đó, lưu dạng Smartchart đó thành Default template và alê hấp!
Bây giờ giả sử bạn đã mở Smartchart của AGF, bất kể trông nó như thế nào. Bạn hãy click trên biểu đồ (hiện tại đang là đường giá) và chọn style phù hợp (dạng bar hay candlestick, đường liền hay đường không liền nét, dày mỏng cỡ nào nếu là dạng line), chọn color v.v dựa vào các biểu tượng trên thanh công cụ phía dưới mà tôi đã giải thích ở bài trước.
Bạn cũng có thể right click trên biểu đồ, vào phần Properties để chỉnh lại dạng biểu đồ thành Line, Bar, Candlestick v.v tuỳ vào phương pháp PTKT mà bạn theo, chỉnh màu sắc của candlesticks v.v
Bạn cũng có thể chọn biểu đồ, chọn Format / Selected Objects và chỉnh sửa hoàn toàn tương tự như khi sử dụng thanh công cụ hoặc nhấp chuột phải.
Chắc chắn bạn muốn vẽ thêm nhiều thứ khác liên quan đến AGF chứ không chỉ trơ trọi đường giá. Có thể bạn muốn vẽ thêm đường MA trên đường giá, thêm Bollinger Band, thêm Volume v.v, tất cả những cái này sẽ được plot trên cửa sổ hiện tại của đường giá. Để làm điều này rất đơn giản: hãy vào Indicator QuickList, chọn indicator mà bạn muốn (giả sử là Volume, đây không phải là một indicator tuy nhiên vẫn có trong danh sách Indicator QuickList), giữ và rê nó đến cửa sổ của đường giá (price chart). Khi đó biểu đồ đường giá sẽ đổi qua màu khác, bạn thả chuột (drag-and-drop). Một cửa sổ Scaling Options sẽ hiện ra trong đó có 4 lựa chọn: display new scale on left (giá trị của trục tung được biểu diễn bên trái), display new scale on right (giá trị của trục tung được biểu diễn bên phải), merge with scale on left (sử dụng trục tung có sẵn bên trái làm trục giá trị), merge with scale on right (sử dụng trục tung có sẵn bên phải làm trục giá trị), overlay without scale (cứ biểu diễn đồ thị nhưng không cần trục tung). Bạn cần lựa chọn kỹ option nào phù hợp. Vì sao? Trên một cửa sổ có thể bạn muốn biểu diễn rất nhiều thứ, ví dụ: đường giá, volume, MA, Bollinger Band, Relative Performance. Có những thứ cùng đơn vị đo, ví dụ đường giá và đường MA (khi đó nếu đã có đường giá rồi thì đường MA nên sử dụng trục tung có sẵn của đường giá, thường là ở bên phải), có những thứ khác đơn vị như đường Volume và đường giá (khi đó phải chọn trục tung bên trái). Tối đa trên một màn hình chỉ có 2 trục tung ở bên trái hoặc bên phải, nếu đã có đường giá và MA (biểu diễn bên phải), volume (biểu diễn bên trái) rồi thì nếu thêm đường Relative Performance, phải chọn overlay without scale thôi.
Bạn cần để ý đến chi tiết “đường giá sẽ đổi qua màu khác” mà tôi nói ở trên. Khi trong cửa sổ ngoài biểu đồ đường giá còn có biểu đồ đường khác, như Volume hoặc đường trung bình trượt 5 ngày (5-day MA), nếu bạn kéo chỉ số - giả sử chỉ số MA - từ Indicator QuiclList vào cửa sổ đó, biểu đồ nào đổi màu thì chỉ số MA mà bạn đang kéo sẽ là MA của biểu đồ đó. Ví dụ nếu đường giá đổi màu thì bạn đang tạo MA của đường giá, nếu Volume đổi màu thì bạn đang tạo MA của volume, nếu đường 5-day MA đổi màu thì bạn đang tạo MA của một MA. Đường nào đổi màu là do bạn di chuyển con trỏ qua lại trong khu vực của cửa sổ đó. Còn tất nhiên khi trong cửa sổ mới chỉ có một biểu đồ đường giá, thì bạn di chuyển con trỏ cỡ nào cũng chỉ có đường giá đổi màu thôi.
Bây giờ giả sử bạn muốn biểu diễn một chỉ số nhưng ở trong cửa sổ riêng. Trong khu vực của cửa sổ hiện tại, nhấp chuột phải, chọn Inner Window, chọn tiếp New (hoặc vào menu Window, chọn New Inner Window). Bạn sẽ tạo biểu đồ của một chỉ số cũng bằng thao tác drag-and-drop từ Indicator QuickList vào cửa sổ con mới mở. Lưu ý cũng phải để ý khi rê chỉ số từ QuickList vào cửa sổ mới mở, thì ở cửa sổ kia đường nào đổi màu.
Giả sử bạn tạo biểu đồ đường MA trong một cửa sổ riêng mới mở (chưa có gì hết), nhưng ở các cửa sổ khác vừa có đường giá của chứng khoán X, volume của chứng khoán X, đường giá của chứng khoán Y và volume của chứng khoán Y (Y cũng có thể là VNINDEX nếu bạn vừa muốn nhìn biến động của X vừa nhìn biến động của thị trường). Khi đó nếu kéo MA từ Indicator QuickList vào cửa sổ con mới mở, thì đó sẽ là MA của cái gì (giá hay volume, X hay Y?). Lúc đó bạn để ý cái gì đổi màu thì là MA của cái đó. Nguyên tắc chung là dù trên màn hình có nhiều chứng khoán, nhiều đường, nhưng có một chứng khoán chính – gọi là base security – đó là chứng khoán mà bạn mở biểu đồ theo thao tác Open. Các biểu đồ của chứng khoán khác bạn mở sau đó nếu cũng trong cùng màn hình, thì bạn phải mở bằng cách chọn menu Insert / Security. Khi bạn không chỉ định MA của cái gì thì ngầm định sẽ là MA của giá Close của chứng khoán gốc – base security. Nếu bạn muốn minh hoạ MA của cái khác thì phải rê MA từ Indicator QuickList đến trên biểu đồ của cái đó. Sau khi đường MA đó hình thành rồi thì kéo nó đi chỗ nào cũng được. Tuy nhiên còn cách khác nữa là tạo một Customized Indicator, sử dụng cái gọi là “the “P” data array identifier”, nếu ai biết Metastock Formula Language sẽ biết dùng.
Quay trở lại việc tạo biểu đồ cho một chỉ số, thay vì drag-and-drop bằng cách chọn chỉ số từ Indicator QuickList, có thể làm cách khác sử dụng menu: vào Insert / Security. Cửa sổ Indicators sẽ hiện ra, bên trái là danh sách các indicators, giả sử bạn chọn Moving Average. Bên phải là danh sách inner window để biểu thị indicator MA đó. Có thể chọn “new inner window” để tạo một inner window mới để biểu thị đường MA, hoặc chọn một Inner Window đang có (#1, #2 v.v). Trong inner window đang có, nếu có sẵn đường giá (biểu thị bằng mã chứng khoán) và các chỉ số khác, chọn cái nào thì sẽ biểu thị MA của cái đó.
Đến đây các bạn đã có thể tạo biểu đồ theo ý mình. Các bạn có thể thực hành mở 4 cửa sổ, trong cửa sổ thứ nhất có đường giá, hãy bổ sung thêm volume và bollinger band. Ở 3 cửa sổ còn lại, hãy tạo biểu đồ cho RSI, MACD và OBV hoặc bất cứ cách kết hợp chỉ số nào theo gu của bạn. Trong quá trình thao tác, sẽ có những tuỳ chọn mà bạn phải chọn để xác định thông số cho từng indicators. Ngoài ra bạn cũng sẽ format màu nền cho từng cửa sổ (bằng cách click chuột phải, chọn Properties), format màu cho các đường đồ thị, có thể bỏ title của các cửa sổ con cho thoáng màn hình (click chuột phải – inner window – properties – bỏ chọn show title bar) v.v. Các bạn cũng nghiên cứu tất cả các chi tiết nhỏ trong quá trình vẽ biểu đồ (horizontal line, parameters v.v). Xong xuôi rồi, hãy click chuột phải để Save as default template. Từ đây về sau, mọi chứng khoán bạn mở ra theo Smartchart sẽ được tự động tạo biểu đồ theo cách bạn ưa thích.
sưu tầm.
Metastock là một phần mềm phân tích kỹ thuật khá phổ biến. Ngoài việc cung cấp công cụ phân tích kỹ thuật thông qua các biểu đồ, chỉ số v.v, Metastock cho phép người sử dụng kết nối dữ liệu Online, thực hiện lệnh mua và bán chứng khoán tự động (nếu công ty môi giới có hạ tầng kỹ thuật cho phép điều này) và nhiều chức năng khác. Nhiều phần mềm phân tích chứng khoán khác cũng rất phổ biến và có những tính năng riêng, ví dụ thực hiện marketing scanning (lọc ra một số chứng khoán đáp ứng tiêu chí nhất định), đưa ra một vài loại biểu đồ “độc quyền”. Ngược lại, lợi thế của Metastock là giao diện đơn giản, dễ sử dụng, phù hợp với mọi thị trường, và đặc biệt có công cụ Metastock Formula Language (một dạng như công thức của Excel), cho phép tạo ra những tính năng cao cấp tuỳ nhu cầu của người sử dụng. Chính vì thế có rất nhiều những sản phẩm được tạo ra để gắn vào Metastock (gọi là plug-ins), ví dụ các công cụ phân tích của các công ty như Profitunity, PS, Robert Deel v.v. Nói chung là Metastock phù hợp với mọi trình độ phân tích kỹ thuật.
Phần 1: Cài đặt: Cài đặt phiên bản MS Professional 8.0 (có thể mua đĩa ở ngoài) là phù hợp đối với thị trường Việt Nam rồi, không nhất thiết phải download phiên bản mới hơn (9.0) cho mất công.
Phần 2: Sau khi cài đặt: The Downloader dùng để xử lý data (tải, nhập, chỉnh sửa, copy, xoá, sắp xếp v.v), còn Metastock Professional dùng để thực hiện phân tích kỹ thuật trên dữ liệu của The Downloader.
Đặc biệt, Metastock cho phép các thao tác: double-click (kích đúp chuột), righ-click (kích chuột phải), drag-and-drop (kích và rê chuột), context sensitive help (trợ giúp tuỳ theo từng tình huống) hoàn toàn tương tự như khi sử dụng Word, Excel hay Powerpoint, vì thế khi các bạn lúng túng với một chức năng hay object nào đó, chỉ cần nhớ right-click, double-click hoặc click vào biểu tượng Help hoặc dấu hỏi bên cạnh mũi tên là có câu trả lời.
Phần 3: Dữ liệu sử dụng cho Metastock
Trước khi đi sâu tìm hiểu cách sử dụng Metastock, tôi sẽ nói sơ qua về dữ liệu sử dụng để phân tích bằng Metastock. Metastock sử dụng dữ liệu Online (được cung cấp qua Internet, có thể ở dạng Real time nghĩa là ngay lập tức, hoặc có độ trễ nhất định tuỳ nhà cung cấp), hoặc dữ liệu Local (do mình tự load vào máy). Ở đây xin giới hạn đến bối cảnh của TTCK Việt Nam là phải dùng Local data, và nguồn dữ liệu hiện có duy nhất theo tôi biết hiện nay là từ website của BSC. Các bạn truy cập vào trang web www.bsc.com.vn, sau đó chọn Giá thống kê / Download Price và tải file dữ liệu về máy tính.
Dữ liệu của BSC có dưới dạng file .dat theo từng ngày, tên file là StockDay hoặc MarketDay, hoặc toàn bộ dữ liệu từ đầu đến một ngày nào đó (BSC thường gom toàn bộ dữ liệu 1-2 lần một tháng), tên file là StockData hoặc MarketData (lưu ý phân biệt chữ Day hoặc Data trong tên file).
File StockDay hoặc StockData chứa dữ liệu từng chứng khoán, còn file MarketDay hoặc MarketData chứa dữ liệu của chỉ số VNINDEX.
Dữ liệu trong file được chứa thành từng record (từng hàng), mỗi record cho một ngày cho một chứng khoán và có các thông tin sau:
Ticker,Date,Open,High,Low,Close,Volume
(Mã chứng khoán, Ngày, Giá mở cửa, Giá cao, Giá thấp, Giá đóng cửa, Khối lượng GD)
Dữ liệu Date được quy ước theo dạng mm/dd/yyyy (tháng/ngày/năm). Trình tự sắp xếp trên đây và quy ước dữ liệu Date này cũng chính là mặc định về quy ước sắp xếp dữ liệu nguồn dạng ASCII sử dụng cho Metastock. Khi các bạn tự tạo ra dữ liệu bằng tay (giả sử là Excel, ví dụ để xây dựng chỉ số Advance-Decline Line, các bạn phải tự tạo dữ liệu về số lượng chứng khoán giảm giá trong ngày, số lượng chứng khoán tăng giá trong ngày v.v là những dữ liệu không được cung cấp sẵn) thì cũng phải tuân theo những quy ước về dữ liệu nguồn phù hợp với từng dạng file (Excel, Quattro, ASCII). Tôi không đi sâu vào chi tiết, trong phạm vi của phần này dữ liệu của BSC đã phù hợp với mục đích của Metastock rồi.
Về lý thuyết, đối với một file dữ liệu dùng để nhập vào, Metastock chỉ cần 2 trường là Date và Close (nếu nhập dữ liệu vào một chứng khoán đã có sẵn thì không cần Ticker, nếu không có ticker và chưa có chứng khoán thì Metastock tự tạo và hỏi mình đặt tên). Tuy nhiên vì Metastock lưu dữ liệu theo 6 trường (fields): Ticker, Date, Open, High, Low, Close, Volume và Open Interest, nên những trường không có sẽ bị gán giá trị = 0, các bạn nên lưu ý trường hợp này.
Open Interest là một thông tin quan trọng cho phân tích kỹ thuật, tuy nhiên nó liên quan đến Options (quyền mua / quyền bán) vốn chưa có trên TTCK Việt Nam, chứ nó không phải là khối lượng dư mua hay dư bán sau mỗi phiên như một số người lầm tưởng. Vì vậy chúng ta có thể bỏ qua Open Interest.
Lưu ý quan trọng: sau này khi sử dụng tốt Metastock, các bạn cần kiểm tra (Test) dữ liệu vì dữ
Phần 4: Nhập dữ liệu cho Metastock
Chúng ta đã có ý tưởng sơ qua về loại dữ liệu sử dụng cho Metastock, và chúng ta cũng tạm hài lòng với những gì BSC cung cấp. Trước khi tìm hiểu kỹ hơn, tôi sẽ nói về cách nhập dữ liệu của BSC vào Metastock. Các bạn sử dụng những nguồn dữ liệu khác nếu chưa rành có thể liên lạc với tôi để biết cụ thể hơn.
Trong website của BSC cũng có hướng dẫn cách nhập dữ liệu vào Metastock thông qua công cụ Convert. Ở đây tôi xin hướng dẫn vắn tắt:
Trước hết các bạn hãy lưu file dữ liệu của BSC vào một thư mục nào đó. Bất kỳ thư mục nào trên máy tính cũng được, đặt tên thư mục là gì cũng được. Đây là thư mục chứa file nguồn, giả sử tôi đặt tại My Documents / DataCK. Giả sử chúng ta có các file dữ liệu của toàn bộ chứng khoán tải từ www.bsc.com.vn tính đến ngày 1/12/2006, đặt tên file là StockData1.12, và dữ liệu của VNINDEX tính đến 1/12/2006, đặt tên file là MarketData1.12.
Khi cài đặt Metastock thì phần mềm sẽ tự động tạo ra thư mục Metastock Data trong ổ C: trong đó có folder Sample chứa các dữ liệu mẫu kèm theo Metastock. Chúng ta sẽ tạo thư mục BSC Data bên trong thư mục Metastock Data để chứa các file dữ liệu Metastock sau khi chúng đã được Convert từ dạng file .dat của BSC qua dạng file của Metastock. Tương tự như trên, chúng ta mở thư mục ở đâu cũng được, đặt tên gì cũng được. Đặt ở thư mục này chỉ là cho tiện thôi.
Sau đó các bạn mở The Downloader, chọn Convert (từ menu Tools / Convert hoặc ấn nút Convert hình 2 cái vali có mũi tên trên Toolbar). Dưới đây là phần Convert dữ liệu các chứng khoán. Cách convert dữ liệu VNINDEX làm tương tự.
Trong cửa sổ Convert Securities, phần Source, chọn File type là ASCII Text. Chọn nút Browse để mở file StockData1.12 trong thư mục chứa file nguồn (My Documents / DataCK / StockData1.12).
Trong phần Destination, chọn File type là Metastock. Chọn Browse, sẽ hiện ra cửa sổ Save, chúng ta chọn thư mục C: / Metastock Data / BSC Data, sau đó chọn Save. Không cần quan tâm đến nút “Security” trong cửa sổ Save.
Bây giờ trong cửa sổ Convert Securities các bạn hãy vào Options, các mục khác cứ để như mặc định (trong cửa sổ Source không cần điền vào Date Range, không cần thay đổi Message Limits, Periodicity để Daily, trong cửa sổ Destination chọn Append data to end of file, Replace matching dates, Create new files, chọn cả Include Open & Open Interest để có dữ liệu giá mở cửa, còn Open Interest như tôi nói ở trên chúng ta không cần quan tâm).
Lưu ý: các bạn nên chọn Traverse Source Folder và bỏ chọn Traverse Destination Folder, tôi không giải thích kỹ phần này, tuy nhiên làm như vậy sẽ tạo tất cả các file dữ liệu Metastock trong cùng một folder thay vì mỗi file (cho mỗi chứng khoán) trong 1 folder riêng. Việc này có những ích lợi nhất định mà tôi sẽ nói ở phần sau.
Sau khi đã đặt các tuỳ chọn như trên, nhấn OK để thực hiện việc chuyển đổi dữ liệu. Nếu nhập toàn bộ dữ liệu từ đầu có thể sẽ mất khá nhiều thời gian. Khi hoàn tất việc convert dữ liệu sẽ hiện ra Conversion Report. Tác dụng của conversion report là cho chúng ta biết việc convert dữ liệu có trọn vẹn hay không, có bị lỗi hay không. Có ba biểu tượng: dấu X màu đỏ biểu thị các records bị lỗi (ví dụ lỗi High < Low hoặc Close > High), dấu tam giác vàng biểu thị warnings (ví dụ có thay đổi quá lớn từ High – Close), dấu tick màu xanh biểu thị mọi thứ OK. Thông thường dấu tick màu xanh sẽ xuất hiện bên trái cạnh mỗi mã chứng khoán được convert, ngoài ra phía sát lề phải giả sử có số 1 xuất hiện ở cột tương ứng với dấu X màu đỏ, nghĩa là dữ liệu của mã chứng khoán đó đã được convert, tuy nhiên bị errors.
Bảng conversion report có tác dụng trong những trường hợp việc convert dữ liệu vì một lý do gì đó mà không trọn vẹn (ví dụ thường xảy ra khi convert dữ liệu Excel qua Metastock nhưng định dạng file không đúng cách). Khi đó nếu kích đúp vào mỗi mã chứng khoán, ta sẽ biết Metastock đã xử lý như thế nào: có thể đã không thực hiện (xuất hiện số 0), hoặc được convert nhưng một số record bị discarded (không được convert). Khi đó cần xem lại quá trình convert, file dùng để convert và phải thực hiện lại thao tác Convert Securities.
Như vậy là chúng ta đã có dữ liệu để phân tích. Từ đây về sau, hàng ngày bạn có thể tải dữ liệu từ website của BSC vào và thực hiện Convert tương tự như trên, giữ nguyên tất cả những tuỳ chọn trong mục Options.
Phần 5: Tìm hiều các menu của The Downloader
Sau đây tôi trình bày về các menu của The Downloader. Mỗi khi chọn một chức năng nhất định, một cửa sổ sẽ hiện ra, tôi xin không đi chi tiết vào tất cả các nút trong mỗi cửa sổ. Các bạn có thể đặt câu hỏi trong topic này hoặc gặp tôi tại địa chỉ Trà Quán Padme ở bài đầu tiên, tôi sẽ giải thích thêm. Ngoài ra cũng xin nhắc lại là Metastock có chức năng Context Sensitive Help, trong mỗi cửa sổ sẽ có nút Help giải thích chi tiết chức năng của mỗi nút trong từng cửa sổ, các bạn có thể click vào đó để tìm hiểu.
The Downloader / File:
Trong mục File có chức năng New để tạo một chứng khoán mới (chưa có dữ liệu), Open để mở một chứng khoán hiện có, Print để in. Thông thường khi các bạn có dữ liệu, ví dụ của BSC (www.bsc.com.vn ) hoặc dữ liệu các bạn tự tạo qua Excel và chuyển dữ liệu đó thành dữ liệu của Metastock thì các chứng khoán sẽ được tự động tạo ra trong quá trình nhập dữ liệu, vì vậy các bạn không cần quan tâm lắm đến chức năng New.
Trong File / New có hai lựa chọn: Security hoặc Composite. File / New / Security nghĩa là tạo ra một chứng khoán “gốc”, nghĩa là chứng khoán “thật” để nạp dữ liệu của chứng khoán đó vào phân tích. Ví dụ tôi tạo ra chứng khoán GMD và nhập dữ liệu của GMD vào (như tôi nói ở trên, nếu các bạn đã có sẵn data của GMD và trong dữ liệu của GMD có ticker thì khi nhập data của GMD vào Metastock bằng chức năng Convert, chứng khoán GMD sẽ tự động được tạo ra).
File / New / Composite dùng để tạo ra một chứng khoán (đúng ra cứ gọi nó là Composite cho khỏi lộn) bằng cách kết hợp 2 chứng khoán khác thông qua các phép toán cộng, trừ, nhân, chia. Ví dụ: tôi muốn biết GMD tăng trưởng so với toàn bộ thị trường như thế nào, tôi sẽ lấy GMD chia cho VNINDEX và theo dõi hiệu số này qua thời gian. Như vậy tôi sẽ tạo ra một Composite bằng GMD / VNINDEX.
File / New / Open dùng để mở dữ liệu của một chứng khoán. Dữ liệu của chứng khoán trong Metastock như đã nói ở trên gồm có các trường Ticker, Date, Open, High, Low, Close, Volume và Open Interest, và được lưu trữ dưới dạng datasheet (một dạng như bảng tính Excel).
Trong Downloader / File , mỗi khi mở dữ liệu một chứng khoán dưới dạng datashet sẽ có các chức năng khác như Close, Save, Page Setup, Print v.v cũng tương tự như các phần mềm Office, tôi không đi sâu vào chi tiết.
Bây giờ giả sử các bạn hãy mở dữ liệu của GMD (sau khi đã qua phần convert dữ liệu của BSC thành dữ liệu Metastock mà tôi trình bày ở trên). Chọn File / Open hoặc ấn vào nút Open trên thanh công cụ. Cửa sổ Open sẽ hiện ra, bạn chọn GMD trong danh sách các mã chứng khoán hoặc gõ vào GMD ở ô Security. Lưu ý là nếu convert data của BSC theo cách ở trên và không làm thêm thao tác gì khác thì tên chứng khoán (Name) và mã chứng khoán (Symbol) là giống nhau, ví dụ đều là GMD – GMD chứ không phải là Gemadpet – GMD. Click vào Open và datasheet của GMD sẽ hiện ra.
Phần 6: Tìm hiều các menu của The Downloader (tiếp)
Chào mừng các bạn trở lại. Chúng ta đã mở datasheet của GMD. Phần trên của datasheet là các thông tin chung về chứng khoán GMD, các bạn có thể đổi symbol, đổi tên, nhập lại First date là ngày tương ứng với record đầu tiên, chỉnh lại đơn vị tính, có các cột Open và Open Interest hay không. Sau khi các bạn sửa những thông tin đó thì datasheet sẽ được tự động thay đổi theo. Để lưu lại những thay đổi các bạn có thể nhấn Ctrl + S, hoặc vào File / Save, hoặc click vào biểu tượng Save trên thanh công cụ. Nếu không làm vậy, khi đóng datasheet lại, Downloader cũng sẽ có câu hỏi có lưu lại những thay đổi không.
Downloader / Edit
Phần dưới của datasheet tương tự như bảng tính Excel, trong đó có các cột là các trường (fields), có các ô (cells), mỗi hàng là một record tương ứng với một ngày. Trong menu Edit có các chức năng cho phép xử lý các cells nhưl: Cut, Copy, Paste, Clear. Ngoài ra có chức năng tìm ngày (Find date), ví dụ sau này các bạn Test dữ liệu và thấy trong quá khứ có những record bị lỗi, cần sửa lại thì sẽ dùng chức năng Find date để tìm record đó; chức năng chèn thêm dòng (insert row), xoá dòng (delete row). Tất cả các chức năng trong menu Edit thao tác hoàn toàn giống như Excel, kể cả phím tắt cũng tương tự (Ctrl + C là copy, Ctrl + X là Cut, Ctrl + V là paste v.v).
Thông thường chức năng Edit được sử dụng để chỉnh sửa trực tiếp trên datasheet các dữ liệu của BSC (bị lỗi khá nhiều). Nếu đối với một chứng khoán số lỗi ít thì có thể sửa tay trên datasheet, còn nếu lỗi nhiều (ví dụ VNINDEX như tôi nói ở trên) thì có thể phải chuyển data từ dạng file .dat của BSC hoặc từ dạng file của Metastock qua Excel, sau đó chỉnh sửa dữ liệu tự động trên Excel rồi convert trở lại Metastock.
Khi các bạn di chuyển con trỏ trong các cells của datasheet, nếu một record có lỗi thì sẽ bị báo lỗi, ví dụ VNINDEX thường xuyên bị báo lỗi “The High-Low-Close relationship for <date> is unusual. Do you want to edit this record?”. Lý do như đã nói, có thể do nhập lộn giá trị của High và Low.
Downloader / View
Trong menu View không có gì đặc biệt. “Last Conversion Report” dùng để xem kết quả của lần convert data cuối cùng (bài trước đã nói kỹ về converson report).
Downloader / Tools
Đây là menu quan trọng nhất cho việc xử lý dữ liệu của Downloader. Chúng ta đã biết chức năng Convert (các bạn muốn tìm hiểu cách convert các dạng file khác có thể đọc thêm trong phần Help, giải thích khá chi tiết, hoặc trao đổi thêm với tôi). Sau đây tôi sẽ nói về chức năng Test, và các chức năng khác.
Chức năng Test cũng khá đơn giản. Các bạn chọn Tools / Test hoặc click vào incon Test trên thanh công cụ (biểu tượng một hình chữ nhật có dấu tick). Cửa sổ Test Securities sẽ hiện ra. Nút Browse để bạn vào thư mục nơi chứa các file data Metastock. Bạn chọn các Securities để test xem dữ liệu có vấn đề không. Để chọn toàn bộ các Securities có thể chọn 1 security bất kỳ, sau đó nhấn Ctrl+A (y chang Word hay Excel!). Để chọn 1 loạt securities liền nhau, sử dụng phím Shift + mũi tên. Để chọn 1 số securities riêng lẻ, nhấn giữ Ctrl trong khi chọn. Trước khi Test, các bạn hãy vào Options. Trong cửa sổ Options sẽ có một số lựa chọn: Các loại lỗi nào bạn muốn kiểm tra xem dữ liệu bị lỗi. Có thể chọn tất cả các loại lỗi, tuy vậy vì thị trường CKVN giao dịch theo phiên, lấy giá Close hôm trước làm giá Open hôm sau nên hay bị lỗi 1100 “Open outside of High-Low range”, đây là một lỗi đối với Metastock nhưng không phải là một lỗi đối với TTCKVN nên cần bỏ chọn lỗi 1100 – nếu không số lượng lỗi báo quá nhiều, khó theo dõi và khi số lỗi vượt qua ngưỡng Maximum errors mà mình đặt ở dưới thì sẽ ngưng lại, các lỗi sau đó không được report.
Bên dưới, chọn Show securities with errors only, không chọn Strict test, đặt Maximum errors khoảng 3000 chẳng hạn. Sau đó OK và quay trở lại cửa sổ Test Securities. Nhấn Test để thực hiện việc kiểm tra dữ liệu, sau đó Test Report sẽ hiện ra báo cho các bạn biết mỗi chứng khoán bị những lỗi gì.
Kinh nghiệm của tôi là lỗi bị nhiều ở VNINDEX, và bị ở cả những record gần nhất nên phải được sửa lại. Còn các chứng khoán khác bị nhiều ở những records của các năm trước nên bỏ qua cũng không sao (trừ khi bạn muốn chạy backtesting một trading system nào đó và cần sử dụng dữ liệu của toàn bộ quá khứ).
Phần 7: Tìm hiều các menu của The Downloader (tiếp)
Tools / Adjust : chức năng này dùng để điều chỉnh dữ liệu (chỉnh ngày Start lui về trước để bổ sung thêm dữ liệu quá khứ, chỉnh dữ liệu của một chứng khoán bằng cách cộng trừ nhân chia với một giá trị nào đó, chỉnh Start / End time của dữ liệu trong ngày – intraday data). Trong phạm vi của bài viết này tôi không đi sâu vào chi tiết vì không cần thiết.
Tools / Copy, Delete : khác với các lệnh Copy / Delete trong menu Edit dùng để copy hoặc delete dữ liệu của các cells hoặc các records trong một datasheet của một chứng khoán nào đó đang được mở, các lệnh Copy / Delete trong menu Tools dùng để copy toàn bộ một file dữ liệu của một chứng khoán (từ folder này qua folder khác hoặc trong cùng một folder), delete (xoá) một chứng khoán hoặc xoá toàn bộ data của một chứng khoán.
Tools / Merge : chức năng này dùng để gộp dữ liệu của 2 chứng khoán (lưu ý là dữ liệu của mỗi chứng khoán đều được tổ chức dưới dạng datasheet với 7 cột: Date, Open, High, Low, Close, Volume, Open Interest, các records được phân biệt với nhau bởi giá trị Date). Sử dụng chức năng này ví dụ khi data của cùng một loại chứng khoán được chứa ở 2 file khác nhau, file thứ nhất chứa data từ 2000 đến 2003, file thứ hai từ 2003 đến nay. Khi đó thực hiện thao tác merge dữ liệu từ file nguồn (file 1) qua file đích (file 2) để có được một file đầy đủ dữ liệu từ 2000 đến nay. Sử dụng file nào làm file nguồn, file nào làm file đích cũng được. Chức năng này ít dùng nên tôi cũng không đi vào chi tiết.
Tools / Sort : chức năng này dùng để sắp xếp dữ liệu của một chứng khoán (Sort Data) theo trình tự tăng giảm dần về thời gian và loại bỏ những records trùng trong datassheet của chứng khoán đó, hoặc sắp xếp thứ tự lưu và xuất hiện các file chứng khoán theo thứ tự abc (Sort Securities). Thông thường các chứng khoán mới nhất sẽ đứng ở cuối danh sách, chứng khoán lâu nhất đứng ở đầu (đây là cách sắp xếp ngầm định theo Start Date của Metastock).
Ngoài ra menu Tools còn có các chức năng khác để tải dữ liệu online (download, vendor options v.v) ít sử dụng nếu chỉ dùng data của BSC.
Phần 8: Tìm hiểu giao diện của Metastock
Các phần trước tôi đã nói sơ về việc sử dụng The Downloader và các thao tác trên dữ liệu. Ngoài những chức năng đã đề cập, khi mở datasheet của một chứng khoán, trên hàng menu sẽ có thêm menu Adjust (không phải chức năng Adjust trong menu Tools) sử dụng để điều chỉnh dữ liệu khi có các nghiệp vụ tách, gộp cổ phiếu. Tuy nhiên, quan trọng nhất trong The Downloader vẫn là 2 chức năng Convert và Test trong menu Tools mà các bạn mới tìm hiểu nên nắm rõ. Ngoài ra, các bạn cũng đừng quên chức năng Context Sensitive Help của The Downloader.
Bây giờ các bạn có thể mở Metastock (offline mode). Giả sử các bạn cài đặt bình thường và chưa có bất kỳ thay đổi nào đối với giao diện Metastock, thì màn hình Metastock sẽ có những phần sau đây (khi chưa mở chart của bất kỳ chứng khoán nào).
Bên dưới hàng Menu (File, View, Tool, Help) đầu tiên là thanh công cụ chuẩn (Standard Toolbar) gồm có lần lượt các nút: New, Open, Save, Print, Print Preview, Copy, Paste, Undo (Redo) với hình dáng và chức năng hoàn toàn giống như các nút tương tự của các phần mềm Office. Tiếp theo cũng trong Standard Toolbar còn có các nút lần lượt từ trái qua phải như sau:
Data Window : khi chọn nút này sẽ hiện lên một cửa sổ có dữ liệu tương ứng với các điểm trên đồ thị đang mở trên màn hình, tuỳ theo vị trí của con trỏ.
Zoom box : dùng để phóng lớn một đoạn biểu đồ nào đó. Để sử dụng nút này, các bạn hãy nhớ thao tác drag-and-drop mà tôi nhấn mạnh ở những bài đầu tiên. Click vào biểu tượng Zoom box, sau đó chọn vị trí trên biểu đồ, giữ và rê chuột. Để quay trở về trạng thái như cũ, chúng ta sử dụng nút Zoom Reset ở góc phải phía dưới màn hình mà tôi sẽ nói ở dưới đây.
Cạnh nút Zoom box là Indicator QuickList: nơi đây có tất cả các chỉ số (indicator) của Metastock cũng như các chỉ số plug-in (do các công ty tạo ra gắn kèm với Metastock), hoặc chỉ số customized do người sử dụng tự tạo ra. Để vẽ biểu đồ cho một chỉ số, có thể sử dụng chức năng Tool / Insert, hoặc chọn chỉ số trong Indicator QuickList, giữ và rê chuột đến nơi định vẽ biểu đồ cho chỉ số đó (thao tác drag-and-drop mà tôi đã nói ở trên). Tất nhiên còn nhiều chi tiết khác khi vẽ biểu đồ cho chỉ số (plotting an indicator) mà tôi sẽ nói kỹ hơn sau, ví dụ như xây dựng chỉ số cho cái gì, cho chứng khoán (base security) hay chỉ số của một chỉ số khác v.v.
Kế bên Indicator QuickList là một loạt các chức năng quan trọng và tương đối cao cấp của Metastock, để hiểu các chức năng này cần có kiến thức về Metastock Formula Language (tôi sẽ dần dần trình bày sau). Các chức năng này gồm:
The Downloader : đã nói ở phần trước
Expert Advisor : đưa ra những phân tích, nhận định cho từng biểu đồ (ví dụ bạn vẽ đường MACD, nếu bật chức năng Expert Advisor của MACD thì màn hình sẽ hiện ra những vùng xanh đỏ, vùng xanh là ám chỉ MACD đang bullish (xu hướng tăng giá), vùng đỏ là bearish (xu hướng giảm giá), cung cấp commentary (MACD hiện tại đang ra sao), khi có một signal (dấu hiệu mua hoặc bán) thì thông báo có thể hiện lên màn hình hoặc gửi đến email (tất nhiên mọi người sử dụng bản crack thì không thể thực hiện chức năng này) v.v
Indicator Builder : cho phép xây dựng các chỉ số tuỳ theo cách phân tích của người sử dụng.
OptionScope : dùng để phân tích các hợp đồng quyền mua/ quyền bán (options) hoặc hợp đồng kỳ hạn (futures), hiện chưa có ở thị trường CKVN.
Enhanced System Tester : cho phép thiết lập các trading systems theo phương pháp PTKT thuần tuý. Ví dụ thay vì bạn phân tích và mua/ bán chứng khoán GMD tuỳ theo tình hình thị trường mà bạn theo dõi hàng ngày, bạn sẽ thiết lập một hệ thống tự động mua (hoặc cung cấp dấu hiệu mua – buy signal) mỗi khi đường MACD của GMD từ dưới vượt lên trên đường trung bình trượt 9 ngày của nó (trigger line), và tự động bán (hoặc cung cấp dấu hiệu bán – sell signal) khi nó đi từ trên xuống dưới qua đường trigger line. Ngoài ra, có thể sử dụng chức năng này để kiểm chứng xem một chỉ số mình sử dụng đã được thiết lập phù hợp chưa, ví dụ bạn băn khoăn không biết nên sử dụng đường MA 20 ngày hay 30 ngày, có thể backtesting một mô hình trading dựa trên đường MA 20 ngày, và một mô hình dựa trên đường MA 30 ngày. Mô hình nào tốt hơn sẽ cho câu trả lời nên lựa chọn 20 ngày hay 30 ngày.
The Explorer : đây là chức năng cho phép lọc ra các chứng khoán đáp ứng những tiêu chuẩn nào đó và cung cấp các chứng khoán đó theo một danh sách, kèm thêm một số giá trị mình chọn. Ví dụ: cứ cuối tuần, bạn lọc ra các chứng khoán tăng giá trong 3 ngày liên tiếp, hiện các chứng khoán này thành một danh sách trong đó có các cột tên CK, mức giá trong từng ngày, thay đổi về giá v.v.
Các nút khác có trên thanh Standard Toolbar là Metastock Community (chỉ có ở phiên bản cao hơn 8.0) để kết nối với các website/ forum liên quan đến Metastock, và nút Context Sensitive Help (hình mũi tên+dấu hỏi). Khi bạn không hiểu một biểu tượng trên màn hình có ý nghĩa gì, chỉ việc click vào nút Context Sensitive Help, và click vào biểu tượng muốn tìm hiểu.
Sau đây là sơ lược về các toolbar khác:
Kế bên Standard Toolbar (cạnh biểu tượng Context Sensitive Help) là Window toolbar, cho phép sắp xếp các cửa sổ khi có nhiều cửa sổ cùng mở một lúc trên màn hình.
Dòng dưới cùng sát đáy màn hình có các toolbars: Style, dùng để định dạng biểu đồ các đường chỉ số (như dạng đồ thị, nếu là line thì vẽ nét liền hay nét rời v.v), độ dày của các đường (thickness). Color, dùng để đặt màu cho các biểu đồ. Để áp dụng Style hoặc Color, chỉ cần click trên đối tượng muốn định dạng, sau đó click trên style hoặc color mong muốn.
Tiếp theo là Custom Toolbar, có các biểu tượng Internet browser để truy cập các trang web của Equis (công ty tạo ra Metastock), các nút Apply Clean Template và Apply Popular Template, dùng để tạo thêm 1 biểu đồ của chứng khoán đang mở trên màn hình (gọi là “base security”), biểu đồ mới được tạo ra sẽ ở dạng Clean Template hoặc Popular Template. Các bạn sử dụng phần mềm Office cũng biết template là một định dạng có sẵn, trong Metastock, mỗi template sẽ có một định dạng về màu sắc, kiểu chart, những chỉ số nào được trình bày cùng với biểu đồ giá v.v. Clean Template chỉ thuần tuý có đường biểu diễn giá của chứng khoán (dưới dạng bar), còn Popular Template ngoài đường giá theo dạng bar còn có các chỉ số RSI, Stochastic, MACD và Volume.
Kế tiếp là các biểu tượng mà khi click vào đó, màn hình sẽ trình bày Broad Layout của thị trường tiền tệ, NASDAQ và NYSE (có thể các phiên bản thấp không có những layout này). Layout hiểu nôm na là một hình thức trình bày các chart trên một màn hình, một layout có thể chứa nhiều chứng khoán (khác với template là cách triển khai biểu đồ cho 1 chứng khoán nhất định). Broad Layout cho phép có những thông tin bao quát nhất về thị trường. Ngoài ra thuật ngữ layout cũng được sử dụng để chỉ định dạng in ấn.
Kế bên Custom Toolbar là Trading Toolbar với những công cụ thực hiện giao dịch trực tuyến, tôi không đi sâu vào chi tiết.
Bên phải hoặc bên trái của màn hình sẽ có các toolbar khác: Trendline, có các đường kẻ dọc, kẻ ngang, kẻ chéo để vẽ trendline. Để sử dụng các đường này, hãy nhớ nguyên tắc click-and-drop hoặc drag-and-drop. Các toolbars Line Studies, Gann, Regression, Data, Text v.v tương đối dễ thao tác, tuy nhiên việc sử dụng phụ thuộc nhiều vào kiến thức phân tích kỹ thuật nên tôi không đi vào chi tiết.
Cuối cùng, khi một biểu đồ đang được mở trên màn hình thì ngoài những toolbars ở trên, bên dưới góc phải, phía trên Trading toolbars là một số nút khác rất tiện lợi (chỉ xuất hiện khi có chart đang mở), đó là các nút sau (theo thứ tự từ trái qua):
Refresh Data, ví dụ khi các bạn sử dụng online data (dữ liệu truyền qua mạng nhưng không phải real time), click vào đây để cập nhật dữ liệu mới nhất về (nó giống như thao tác khi soạn văn bản trong Word cứ vài phút lại nhấn Ctrl+Save để lưu vậy).
Periodicity : dùng để thay đổi đơn vị thời gian (periods) để biểu diễn dữ liệu trên biểu đồ (vd dữ liệu ngày chuyển thành dữ liệu tuần, dữ liệu tuần chuyển thành dữ liệu tháng). Quy định về dữ liệu thì các bạn biết rồi, Open là giá close cuối cùng của period trước, close là giá cuối cùng củ period này v.v Vì thế nếu dữ liệu ngày chuyển thành tuần thì Open là giá close của thứ 6 tuần trước, close là giá close của thứ 6 tuần này. Để thay đổi periodicity, click vào biểu tượng và chọn tương ứng. Nếu không sử dụng các periods có sẵn (ngày / tháng / năm) mà tính period theo cách riêng, ví dụ cứ 10 ngày thì tính là 1 period, thì chọn Other và chọn con số mình muốn. Cách khác để thay đổi Periodicity là right click vào trục X (trục ngang), chọn Periodicity hoặc X-axis properties (hãy nhớ nguyên tắc right click).
Kế tiếp là nút Rescale Y axix, sử dụng khi chúng ta có một số thay đổi về đơn vị trên trục tung (trục đứng) như là để maximum value quá cao, và cần điều chỉnh lại. Click vào nút này sẽ tự động chuyển trục tung về thang đo hợp lý sao cho biểu đồ trông vừa vặn.
Nút Zoom Reset, Zoom In hay Zoom Out sẽ thay đổi view của biểu đồ, biểu thị toàn bộ data để mình thấy rõ xu hướng, hay chỉ biểu thị một vài ngày gần nhất để nhìn candlesticks cho rõ hơn.
Cuối cùng là nút Choose Security, click vào đây sẽ hiện ra cửa sổ chứa danh sách các chứng khoán xếp theo alphabet. Các bạn có thể chọn 1 chứng khoán bất kỳ để xem chart của nó. Tuy nhiên có một cách khác để chuyển qua một chứng khoán khác, đó là các bạn cứ gõ vào bàn phím ký tự đầu tiên liên quan đến tên (hoặc mã) chứng khoán, cửa sổ Choose Security cũng sẽ tự động hiện ra. Lưu ý các tính năng này chỉ có khi đang có ít nhất một chứng khoán đang được mở trên màn hình.
Lưu ý quan trọng : trong cửa sổ Choose Security có Options, trong đó có 2 tuỳ chọn là Use Smartcharts và Use chart as template. Tôi sẽ giải thích về smartchart sau, tuy nhiên nếu chọn Use Smartcharts thì chứng khoán bạn chọn sẽ được mở ra y như lần cuối cùng nó được lưu lại, còn nếu chọn Use chart as template thì chứng khoán bạn chọn sẽ được mở ra y như chứng khoán đang được mở trên màn hình. Tác dụng của việc này là giả sử bạn nghĩ ra một kiểu vẽ chart mà bạn ưa thích và muốn kiểu đó được áp dụng cho tất cả chart của các chứng khoán khác, bạn sẽ làm 2 cách:
Lưu kiểu chart mà bạn nghĩ ra thành một dạng template, sau đó mở chart của chứng khoán khác ra và áp dụng template đó (click chuột phải trên biểu đồ của chứng khoán, chọn Apply template và chọn đúng template bạn muốn).
Hoặc mở sẵn chứng khoán có kiểu chart mà bạn ưng ý, mở Choose Security, chọn Options / Use chart as template, khi đó mỗi chứng khoán tiếp theo được mở ra sẽ được quy luôn về dạng chart của chứng khoán đang mở sẵn. Bạn chỉ việc Ctrl+Save là xong.
Phần 12: Tạo biểu đồ
Hẳn ai cũng muốn tôi phải nói ngay vào phần này, vì ai mà không muốn “ra sản phẩm” liền để còn coi ngó xem chứng khoán đang tăng giảm thế nào, đặng còn kiếm chút cháo cho kịp! Tuy nhiên khi các bạn đã sử dụng tương đối tốt Metastock rồi thì sẽ thấy rằng những gì tôi trình bày ở trên, nếu không nhìn từ góc độ đầu tư mà nhìn từ góc độ sử dụng một phần mềm, là rất cần thiết để mình sử dụng sao cho tiện nhất. Ngoài ra, tin tôi đi, cuốn sách dạy Metastock nào cũng nói về Metastock Formula Language và những thứ cao siêu đại loại thế, nhưng không có cuốn nào nói kỹ về dữ liệu và giao diện như “cuốn sách” của tôi đâu.
Có ba dạng biểu thị biểu đồ (tôi cũng không biết phải dùng ngôn ngữ tiếng Việt thế nào để các bạn khỏi lẫn lôn): Smartchart là dạng biểu đồ mà tất cả những gì bạn tạo ra hay chỉnh sửa trên đó đều được lưu lại tức thì (được coi là những chỉnh sửa cuối cùng mà không cần nhấn Ctrl+Save hay chọn Save từ menu File). Smartchart như vậy rất tiện cho chúng ta thao tác. Tuy nhiên mỗi chứng khoán chỉ có 1 smartchart nhưng có thể tạo vô số chart cho chứng khoán đó. Đối với Chart, cần Save và đặt tên thì mới lưu lại được. Giả sử trên màn hình có 2 cửa sổ, một cửa sổ là Smartchart, một cửa sổ là Chart nhưng tất cả những gì được vẽ là y chang nhau, thì để phân biệt ta để ý rằng Smartchart sử dụng tên của chứng khoán (mã CK) làm tên Smartchart, còn Chart thì sẽ có tên bắt đầu bằng Chart1-, Chart2-, v.v trừ khi ta lưu và đặt tên khác. Ngoài Smartchart và Chart, còn có Layout mà tôi đã nói ở bài trước. Smartchart được lưu tại chính folder dùng để chứa dữ liệu của Metastock sau khi convert từ data của BSC.
Để cho tiện, từ đây về sau chúng ta sẽ ngầm hiểu rằng ta đang thao tác trên Smartchart. Thao tác trên Chart hoàn toàn tương tự (nhưng mất công hơn vì phải Save).
Bây giờ hãy mở biểu đồ của một chứng khoán nào đó, giả sử là AGF. Click vào biểu tượng Open trên thanh công cụ hoặc File / Open. Trong cửa sổ Open, phần Files of Type cần chắc chắn là Smartchart.
Nếu bạn chọn một CK trong danh sách và click Open thì Smartchart của AGF sẽ được mở. Smartchart này tương ứng với những thay đổi lần cuối cùng mà bạn áp dụng đối với AGF. Nếu bạn chưa từng mở AGF, thì Smartchart của AGF sẽ tự động được tạo ra theo Default template (tôi đã giải thích template ở bài trước rồi). Nếu bạn muốn mở theo một template khác thì trước hết bôi đen AGF, sau đó cạnh nút Open có một mũi tên nhỏ, click vào đó chọn Open with template, chọn template muốn áp dụng và OK.
Đây là cách mà tôi làm: tôi không quá phức tạp chuyện phân tích kỹ thuật, chỉ cần tạo Smartchart cho mỗi chứng khoán là đủ chứ không cần tạo nhiều Chart để phân tích nhiều góc độ khác nhau. Trong Smartchart, ngoài đường giá, tôi sẽ đưa vào Volume, Bollinger Band, MACD, Stochastic và CMF và chỉ sử dụng những thông số này cho mọi chứng khoán. Do đó tôi sẽ tạo smartchart cho một chứng khoán theo đúng ý mình gồm những thông số trên, và định dạng màu sắc sao cho dễ theo dõi. Sau đó chuyển dạng smartchart này thành default template bằng cách right click trên chart và chọn Save as Default Template. Từ đây về sau, mọi chứng khoán mới được bổ sung vào danh sách, khi lần đầu mở lên sẽ đều có Smartchart như tôi muốn, sẽ tiết kiệm rất nhiều thao tác. Các bạn cũng có thể làm tương tự: xác định cho mình một phương hướng đầu tư dựa trên PTKT, tạo Smartchart phục vụ phương hướng đó, lưu dạng Smartchart đó thành Default template và alê hấp!
Bây giờ giả sử bạn đã mở Smartchart của AGF, bất kể trông nó như thế nào. Bạn hãy click trên biểu đồ (hiện tại đang là đường giá) và chọn style phù hợp (dạng bar hay candlestick, đường liền hay đường không liền nét, dày mỏng cỡ nào nếu là dạng line), chọn color v.v dựa vào các biểu tượng trên thanh công cụ phía dưới mà tôi đã giải thích ở bài trước.
Bạn cũng có thể right click trên biểu đồ, vào phần Properties để chỉnh lại dạng biểu đồ thành Line, Bar, Candlestick v.v tuỳ vào phương pháp PTKT mà bạn theo, chỉnh màu sắc của candlesticks v.v
Bạn cũng có thể chọn biểu đồ, chọn Format / Selected Objects và chỉnh sửa hoàn toàn tương tự như khi sử dụng thanh công cụ hoặc nhấp chuột phải.
Chắc chắn bạn muốn vẽ thêm nhiều thứ khác liên quan đến AGF chứ không chỉ trơ trọi đường giá. Có thể bạn muốn vẽ thêm đường MA trên đường giá, thêm Bollinger Band, thêm Volume v.v, tất cả những cái này sẽ được plot trên cửa sổ hiện tại của đường giá. Để làm điều này rất đơn giản: hãy vào Indicator QuickList, chọn indicator mà bạn muốn (giả sử là Volume, đây không phải là một indicator tuy nhiên vẫn có trong danh sách Indicator QuickList), giữ và rê nó đến cửa sổ của đường giá (price chart). Khi đó biểu đồ đường giá sẽ đổi qua màu khác, bạn thả chuột (drag-and-drop). Một cửa sổ Scaling Options sẽ hiện ra trong đó có 4 lựa chọn: display new scale on left (giá trị của trục tung được biểu diễn bên trái), display new scale on right (giá trị của trục tung được biểu diễn bên phải), merge with scale on left (sử dụng trục tung có sẵn bên trái làm trục giá trị), merge with scale on right (sử dụng trục tung có sẵn bên phải làm trục giá trị), overlay without scale (cứ biểu diễn đồ thị nhưng không cần trục tung). Bạn cần lựa chọn kỹ option nào phù hợp. Vì sao? Trên một cửa sổ có thể bạn muốn biểu diễn rất nhiều thứ, ví dụ: đường giá, volume, MA, Bollinger Band, Relative Performance. Có những thứ cùng đơn vị đo, ví dụ đường giá và đường MA (khi đó nếu đã có đường giá rồi thì đường MA nên sử dụng trục tung có sẵn của đường giá, thường là ở bên phải), có những thứ khác đơn vị như đường Volume và đường giá (khi đó phải chọn trục tung bên trái). Tối đa trên một màn hình chỉ có 2 trục tung ở bên trái hoặc bên phải, nếu đã có đường giá và MA (biểu diễn bên phải), volume (biểu diễn bên trái) rồi thì nếu thêm đường Relative Performance, phải chọn overlay without scale thôi.
Bạn cần để ý đến chi tiết “đường giá sẽ đổi qua màu khác” mà tôi nói ở trên. Khi trong cửa sổ ngoài biểu đồ đường giá còn có biểu đồ đường khác, như Volume hoặc đường trung bình trượt 5 ngày (5-day MA), nếu bạn kéo chỉ số - giả sử chỉ số MA - từ Indicator QuiclList vào cửa sổ đó, biểu đồ nào đổi màu thì chỉ số MA mà bạn đang kéo sẽ là MA của biểu đồ đó. Ví dụ nếu đường giá đổi màu thì bạn đang tạo MA của đường giá, nếu Volume đổi màu thì bạn đang tạo MA của volume, nếu đường 5-day MA đổi màu thì bạn đang tạo MA của một MA. Đường nào đổi màu là do bạn di chuyển con trỏ qua lại trong khu vực của cửa sổ đó. Còn tất nhiên khi trong cửa sổ mới chỉ có một biểu đồ đường giá, thì bạn di chuyển con trỏ cỡ nào cũng chỉ có đường giá đổi màu thôi.
Bây giờ giả sử bạn muốn biểu diễn một chỉ số nhưng ở trong cửa sổ riêng. Trong khu vực của cửa sổ hiện tại, nhấp chuột phải, chọn Inner Window, chọn tiếp New (hoặc vào menu Window, chọn New Inner Window). Bạn sẽ tạo biểu đồ của một chỉ số cũng bằng thao tác drag-and-drop từ Indicator QuickList vào cửa sổ con mới mở. Lưu ý cũng phải để ý khi rê chỉ số từ QuickList vào cửa sổ mới mở, thì ở cửa sổ kia đường nào đổi màu.
Giả sử bạn tạo biểu đồ đường MA trong một cửa sổ riêng mới mở (chưa có gì hết), nhưng ở các cửa sổ khác vừa có đường giá của chứng khoán X, volume của chứng khoán X, đường giá của chứng khoán Y và volume của chứng khoán Y (Y cũng có thể là VNINDEX nếu bạn vừa muốn nhìn biến động của X vừa nhìn biến động của thị trường). Khi đó nếu kéo MA từ Indicator QuickList vào cửa sổ con mới mở, thì đó sẽ là MA của cái gì (giá hay volume, X hay Y?). Lúc đó bạn để ý cái gì đổi màu thì là MA của cái đó. Nguyên tắc chung là dù trên màn hình có nhiều chứng khoán, nhiều đường, nhưng có một chứng khoán chính – gọi là base security – đó là chứng khoán mà bạn mở biểu đồ theo thao tác Open. Các biểu đồ của chứng khoán khác bạn mở sau đó nếu cũng trong cùng màn hình, thì bạn phải mở bằng cách chọn menu Insert / Security. Khi bạn không chỉ định MA của cái gì thì ngầm định sẽ là MA của giá Close của chứng khoán gốc – base security. Nếu bạn muốn minh hoạ MA của cái khác thì phải rê MA từ Indicator QuickList đến trên biểu đồ của cái đó. Sau khi đường MA đó hình thành rồi thì kéo nó đi chỗ nào cũng được. Tuy nhiên còn cách khác nữa là tạo một Customized Indicator, sử dụng cái gọi là “the “P” data array identifier”, nếu ai biết Metastock Formula Language sẽ biết dùng.
Quay trở lại việc tạo biểu đồ cho một chỉ số, thay vì drag-and-drop bằng cách chọn chỉ số từ Indicator QuickList, có thể làm cách khác sử dụng menu: vào Insert / Security. Cửa sổ Indicators sẽ hiện ra, bên trái là danh sách các indicators, giả sử bạn chọn Moving Average. Bên phải là danh sách inner window để biểu thị indicator MA đó. Có thể chọn “new inner window” để tạo một inner window mới để biểu thị đường MA, hoặc chọn một Inner Window đang có (#1, #2 v.v). Trong inner window đang có, nếu có sẵn đường giá (biểu thị bằng mã chứng khoán) và các chỉ số khác, chọn cái nào thì sẽ biểu thị MA của cái đó.
Đến đây các bạn đã có thể tạo biểu đồ theo ý mình. Các bạn có thể thực hành mở 4 cửa sổ, trong cửa sổ thứ nhất có đường giá, hãy bổ sung thêm volume và bollinger band. Ở 3 cửa sổ còn lại, hãy tạo biểu đồ cho RSI, MACD và OBV hoặc bất cứ cách kết hợp chỉ số nào theo gu của bạn. Trong quá trình thao tác, sẽ có những tuỳ chọn mà bạn phải chọn để xác định thông số cho từng indicators. Ngoài ra bạn cũng sẽ format màu nền cho từng cửa sổ (bằng cách click chuột phải, chọn Properties), format màu cho các đường đồ thị, có thể bỏ title của các cửa sổ con cho thoáng màn hình (click chuột phải – inner window – properties – bỏ chọn show title bar) v.v. Các bạn cũng nghiên cứu tất cả các chi tiết nhỏ trong quá trình vẽ biểu đồ (horizontal line, parameters v.v). Xong xuôi rồi, hãy click chuột phải để Save as default template. Từ đây về sau, mọi chứng khoán bạn mở ra theo Smartchart sẽ được tự động tạo biểu đồ theo cách bạn ưa thích.
sưu tầm.
Bài tương tự bạn quan tâm
Ứng dụng Excel Phân tích chứng khoán
- Thread starter Mr LNA
- Ngày bắt đầu
Hướng dẫn phân tích & đầu tư chứng khoán
- Thread starter Mr LNA
- Ngày bắt đầu
Ebook Hướng dẫn phân tích và đầu tư chứng khoán
- Thread starter Mr LNA
- Ngày bắt đầu
800 câu hỏi trắc nghiệm và phân tích môn Thị trường...
- Thread starter Mr LNA
- Ngày bắt đầu
Tổng Quan Về Phân tích kỹ thuật chứng khoán
- Thread starter saveyourtime1990
- Ngày bắt đầu